Tiểu thuyết Đôn ki hô tê-Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra tập 42
Mời nghe, đọc thêm: Tiểu thuyết Đôn ki hô tê tập 41
Mời nghe, đọc thêm: Tiểu thuyết Đôn ki hô tê tập 43
Tôi xin rút khỏi cuộc, Xantrô nói, và tôi mang ra suối chiếc bánh nhân thịt này để có đủ lương ăn trong ba ngày liền. Ông chủ Đôn Kihôtê của tôi thường nói với tôi rằng giám mã của hiệp sĩ giang hồ phải ăn no căng bụng khi có dịp được ăn vì luôn luôn gặp phải trường hợp bất ngờ bị lạc giữa rừng sâu năm sáu ngày chưa ra khỏi; nếu bụng không no hoặc túi hai ngăn không đầy ắp thì anh giám mã sẽ phải nằm lại trong rừng như đã xảy ra nhiều lần, và da thịt sẽ đét lại như xác ướp.
Xantrô, anh khi nào cũng nắm đằng chuôi, Đôn Kihôtê nói; thôi được, muốn đi thì cứ việc đi và ăn được bao nhiêu cứ việc ăn. Ta no bụng rồi, bây giờ chỉ cần bồi bổ tinh thần thôi và ta sẽ làm việc đó bằng cách nghe chàng trai kể chuyện.

Tất cả bọn tôi cũng cần bồi bổ tinh thần, thầy tu nói. Rồi ông yêu cầu chàng chăn dê kể cho mọi người nghe câu chuyện mà chàng đã hứa. Một tay vẫn nắm sừng dê, chàng chăn dê lấy tay kia vỗ nhẹ hai cái vào sườn con vật và bảo:
Dê khoang, hãy tựa vào người ta mà ngủ; chúng ta còn đủ thời giờ để trở về chuồng trại.
Hình như con dê nghe hiểu vì khi thấy chủ ngồi xuống, nó ngoan ngoãn nằm ngay bên cạnh, nhìn vào mặt chàng trai như tỏ ra chăm chú nghe chàng kể chuyện. Câu chuyện của chàng chăn dê bắt đầu như sau:
Chương 51 CHÀNG CHĂN DÊ KỂ CHUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ÁP GIẲI ĐÔN KIHÔTÊ
Cách thung lũng này ba dặm có một làng nhỏ nhưng trù phú nhất trong khắp vùng. Trong làng có một nông gia được mọi người rất kính trọng, và tuy rằng sự kính trọng bắt nguồn từ sự giàu sang, ông ta được kính trọng vì đạo đức hơn vì tiền tài. Thế nhưng, điều làm cho ông sung sướng nhất, như ông thường nói, là đã sinh được một người con gái nhan sắc tuyệt vời, thông minh hiếm có, vừa đẹp người vừa đẹp nết, khiến ai nom thấy cũng phải ngạc nhiên vì tạo hóa và thiên nhiên đã dành cho nàng nhiều điều tốt lành như vậy.
Hồi còn nhỏ nàng đã xinh, càng lớn càng xinh, và đến tuổi mười sáu thì tuyệt đẹp. Tiếng đồn về nhan sắc của nàng lan tới khắp các xóm làng lân cận, lan tới cả các tỉnh xa, tới tận cung đình nhà vua và tới tai khắp bàn dân thiên hạ khiến mọi người từ mọi nơi kéo tới chiêm ngưỡng như thể ta chiêm ngưỡng một của quý hoặc một cảnh tượng màu nhiệm nào vậy. Cha nàng giữ con gái rất nghiêm ngặt và nàng cũng biết giữ thân vì quả thật không có cái khóa nào giữ một người con gái tốt hơn đức hạnh của chính người con gái đó.
Của cải của người cha và sắc đẹp của người con gái khiến cho rất nhiều chàng trai trong làng ngoài xóm muốn hỏi làm vợ. Vì nắm trong tay một của quý như vậy nên người cha đâm ra khó xử, không biết nhận lời ai trong số rất nhiều đám tới hỏi. Trong số đó có tôi. Tôi có nhiều hy vọng thành công vì cha cô đã biết tôi là người cùng làng, lại con nhà gia thế, đang tuổi thanh xuân, có của và cũng không kém phần thông minh. Một chàng trai khác cùng làng và cũng có đủ những ưu điểm như tôi cũng đến hỏi nàng làm vợ. Việc này khiến cha nàng trở nên do dự vì ông ta thấy rằng gả con gái cho anh nào cũng đều tốt cả.
Để giải quyết lúng túng này, ông quyết định nói cho Lêanđra biết (đó là tên cô gái xinh đẹp đã làm tôi đau khổ); ông bảo nàng rằng cả hai đám đều tốt như nhau cho nên ông muốn để con gái yêu được tùy ý lựa chọn. Thật là một gương tốt đáng để cho các ông bố khác noi theo khi họ định cưới vợ gả chồng cho con cái; tôi không muốn nói rằng bố mẹ cứ để mặc cho con cái lựa chọn lung tung, trái lại họ phải giới thiệu những đám tử tế để con cái được tùy ý lựa chọn. Tôi không biết Lêanđra ưng người nào, chỉ biết rằng sau đó cha nàng đã gặp hai người chúng tôi, nói rằng nàng còn ít tuổi và còn dùng những lời lẽ chung chung khác khiến cho bố con ông ta không bị ràng buộc gì mà chúng tôi cũng chẳng phật lòng. Đối thủ của tôi tên là Anxelmô, tôi là Ơhêniô; tôi cần nói rõ như vậy để các ngài dễ theo dõi các nhân vật trong câu chuyện bi thảm đang kể ra đây, một câu chuyện kết thúc một cách đáng buồn.
Vào thời gian đó có một anh chàng trở về làng, tên hắn là Vixentê đê la Rôca, con trai một nông phu nghèo trong làng. Hắn là nhà binh, đã qua Ý-đại-lợi và nhiều nơi khác. Năm hắn mười hai tuổi, có một ông đại úy cùng một đại đội qua làng và bắt hắn đem đi; mười hai năm sau, hắn trở về làng trong bộ quân phục rực rỡ, trên người đầy những đồ trang sức bằng pha lê và dây dợ bằng kim loại. Nay hắn đóng bộ này, mai lại bộ khác. Nhưng tất cả những của hào nhoáng đó chỉ là đồ tập tàng thôi.
Người dân quê vốn tinh nghịch, và vì họ rỗi rãi nên càng tinh nghịch; họ đã ghi lại tỉ mỉ những bộ quần áo hắn mặc và những đồ trang sức hắn đeo trên người và cuối cùng phát hiện ra rằng hắn chỉ có ba bộ màu sắc khác nhau cộng với một số dây nịt và bít tất. Tuy nhiên hắn khéo thay đổi cách ăn mặc thành thử nếu như không ghi tỉ mỉ, người ta sẽ tưởng hắn có tới trên mười bộ y phục và trên hai chục bộ lông gắn ở ngù mũ. Vấn đề trang phục của hắn mà tôi nêu ra đây không phải là vô ích và thừa đâu vì những bộ quần áo đó đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ câu chuyện này.
Hắn hay ra ngồi ở một bãi trống trong làng, trên một chiếc ghế đá ở dưới một cây bạch dương lớn, và chúng tôi há to mồm lắng nghe hắn kể về các trận chiến thắng. Không nơi nào trên trái đất hắn không đặt chân tới, không có trận nào hắn không dự; số người Môrô bị hắn giết còn nhiều hơn cả số dân của hai xứ Maruêcôx và Tunêx. Theo lời hắn kể thì hắn đã dự nhiều trận độc chiến hơn cả Gantê và Luna, hơn cả Điêgô Garxia đê Parêđêx và hàng ngàn dũng sĩ khác mà hắn đã đọc tên ra; và trong tất cả các trận đó, hắn đều thắng mà không mất giọt máu nào.
Rồi hắn chỉ vào những vết sẹo tuy chẳng ai nhận ra, khoe rằng mình đã bị trúng đạn trong các cuộc giao chiến hoặc trong khi làm nhiệm vụ. Với một sự láo xược chưa từng thấy, hắn gọi những người bằng vai và cả những người quen biết hắn là thằng nọ thằng kia; hắn còn nói rằng chính cánh tay của hắn mới là cha hắn, rằng hắn trở nên quý tộc là do công lao của hắn, rằng với tư cách là một người lính, hắn không thua kém gì đức vua. Ngoài thái độ ngông nghênh đó, hắn biết âm nhạc đôi chút, và cũng tập tọng chơi đàn ghi-ta (người ta bảo là hắn bắt đàn nói thì đúng hơn). Tài của hắn chưa hết: hắn còn là thi sĩ nữa; trong làng có bất cứ một chuyện nhỏ nhặt gì, hắn cũng làm thành một bài thơ dài tới một dặm rưỡi.
Thế mà chàng quân nhân tôi vừa tả, chàng Vixentê đê la Rôca, con người dũng cảm, lịch thiệp, biết nhạc lại biết cả làm thơ, đã được Lêanđra để ý qua nhiều lần nàng từ trên cửa sổ nhìn xuống bãi. Những bộ y phục thêu kim tuyến choáng lộn của hắn làm nàng say đắm; những bài thơ do hắn soạn ra làm nàng mê mẩn tâm thần; những chiến công hắn khoe là đã lập nên lọt tới tai nàng. Cuối cùng, ma xui quỷ khiến làm sao, Lêanđra yêu Vixentê trước khi tên này nảy ra ý định tán tỉnh nàng. Trong những chuyện yêu đương, không có gì thuận lợi hơn một khi người đàn bà ngỏ ý trước, và chính vì vậy mà Lêanđra và Vixentê đã dễ dàng thỏa thuận với nhau. Lêanđra đã thực hiện ý định của mình trước khi một vài anh trong số những đám cầu hôn phát hiện ra: nàng rời bỏ ngôi nhà của người cha yêu quý (mẹ nàng đã mất từ lâu) và đi khỏi làng cùng với Vixentê, kẻ đã giành được thắng lợi to lớn nhất trong tất cả những thắng lợi mà hắn đã tự gán cho mình.
Cả làng sửng sốt và ai biết tin đó cũng phải kinh ngạc. Tôi cũng rất ngạc nhiên, Anxelmô thì bàng hoàng, cha nàng buồn xỉu, họ hàng của nàng bẽ mặt, công lý được cầu cứu và đội lính cảnh sát sẵn sằng hành động. Người ta lùng sục các nẻo đường, các khu rừng và ba ngày sau thì tìm thấy cô gái Lêanđra đỏng đảnh trong một hang núi, trên mình có độc chiếc áo lót, bao nhiêu tiền nong và đồ tư trang quý giá mang theo bị lột sạch. Người ta đưa nàng về nhà trình diện người cha đáng thương; khi hỏi về tai họa đã đến với nàng, nàng nói toạc ra rằng Vixentê đê la Rôca đã lừa dối, hứa sẽ lấy nàng làm vợ, bảo nàng đi khỏi nhà cha rồi hắn sẽ đưa tới Napôlêx, một tỉnh trù phú và ăn chơi nhất trần gian; nhẹ dạ cả tin, nàng đã làm y lời, lấy cắp một số của cải của cha và theo hắn ngay cái đêm bỏ nhà ra đi; hắn dẫn nàng vào sâu trong núi và nhốt trong hang cho tới khi mọi người tìm thấy.
Lêanđra còn kể thêm rằng hắn không làm nhục nàng nhưng đã lấy hết của cải rồi chuồn thẳng bỏ mặc nàng trong hang. Mọi người nghe xong lại càng ngạc nhiên. Thưa các ngài, quả thật cũng khó tin được rằng tên Vixentê đã tự kiềm chế được mình. Tuy nhiên Lêanđra một mực nói thế khiến người cha đau khổ cũng thấy yên tâm; ông không tiếc số của cải đã bị mang đi vì cái quý nhất ở con gái ông vẫn nguyên vẹn, nếu mất đi rồi thì không bao giờ hòng lấy lại được. Ngay hôm Lêanđra trở về nhà, cha nàng đưa đi biệt tích; ông nhốt nàng trong một nhà tu kín ở một tỉnh gần đó, hy vọng rằng thời gian sẽ làm phai nhạt dần dư luận không hay về con gái mình. Đối với những người không quan tâm tới việc Lêanđra tốt hay xấu, dư luận chung cho rằng nàng cũng đáng được tha thứ vì tuổi còn non; nhưng những ai đã biết nàng là một con người khôn ngoan và thông minh lại không nghĩ rằng nàng sai lầm vì dại dột mà vì đàn bà xưa nay nhẹ dạ và thông thường có thiên hướng hư hỏng xấu xa.
Sau khi Lêanđra bị nhốt trong nhà tu, Anxelmô có mắt cũng như mù vì chàng không có gì thích thú đáng nhìn nữa; đôi mắt tôi cũng mờ đi, không ánh sáng nào làm cho thấy một vật gì tốt đẹp cả. Vắng Lêanđra, nỗi buồn của chúng tôi càng tăng và sức chịu đựng càng giảm. Chúng tôi nguyền rủa những bộ y phục hào nhoáng của Vixentê và oán trách sự bất cẩn của cha Lêanđra. Cuối cùng, Anxelmô và tôi bàn nhau bỏ làng vào ở trong thung lũng này, chàng mang theo một đàn cừu lớn, tôi một đàn dê để chăn. Chúng tôi sống giữa cỏ cây cho khuây khỏa nỗi buồn đau; có lúc cả hai chúng tôi cùng ca ngợi hoặc chê trách cô nàng Lêanđra xinh đẹp, có lúc chúng tôi than thở kêu trời thấu cho nỗi lòng khổ đau.
Có rất nhiều chàng trai đã từng yêu Lêanđra cũng bắt chước chúng tôi vào sống trong vùng núi âm u này và làm nghề như chúng tôi. Cả cái thung lũng này đầy những chàng chăn cừu chăn dê cùng những chuồng trại, nom chẳng khác gì miền Arcađia ở Hy Lạp; đâu đâu cũng thấy vang lên tiếng gọi nàng Lêanđra xinh đẹp. Có anh nguyền rủa nàng là đỏng đảnh, thay lòng đổi dạ, không chung tình; có anh kết tội nàng là dễ dãi, nhẹ dạ; anh này tha thứ, anh kia lên án và xỉ vả; có anh ca ngợi sắc đẹp của nàng, anh khác lại chê trách tính tình của nàng; tóm lại, anh nào cũng trách móc nàng nhưng cũng vẫn yêu nàng.
Tất cả đều hóa điên hóa dại đến mức có anh trách nàng là kiêu ngạo mặc dù chưa hề nói với nàng một lời; có anh than phiền là bị cơn ghen giày vò mặc dù nàng không hề nhận lời với ai (như tôi đã kể ở trên, mãi tới khi phát hiện ra sai lầm của Lêanđra, người ta mới biết ý định của nàng). Trong các hốc đá, bên bờ suối, dưới bóng cây, đâu đâu cũng có những chàng chăn cừu đứng ngồi than thở với trời đất nỗi bất hạnh của mình. Tên của Lêanđra vang vọng khắp mọi nơi: Lêanđra vang trong núi, Lêanđra thì thầm bên suối, Lêanđra làm chúng tôi hồi hộp, sung sướng, hy vọng mà không tin tưởng, lo sợ mà không biết mình lo sợ điều gì. Trong số tất cả đám người điên loạn ấy, riêng có một người tỏ ra tỉnh táo hơn cả, đó là Anxelmô, đối thủ của tôi.
Tuy có nhiều điều để than phiền, trách móc, anh ta chỉ than phiền về sự vắng mặt của người yêu. Vốn giỏi thổi sáo và làm thơ, anh vừa thổi vừa ngâm thơ để nói lên nỗi đau khổ. Tôi làm cách khác, theo tôi, dễ làm và đúng hơn: tôi trách móc đàn bà nhẹ dạ, bất trắc, hai lòng, hứa suông, thề hão, thiếu chín chắn trong suy nghĩ cũng như trong ý đồ. Thưa các ngài, chính vì vậy mà khi bước chân tới đây, tôi đã nói với con dê cái này những lời mà các ngài đã nghe thấy. Vì nó là dê cái nên tôi không quý nó lắm mặc dù đó là con dê hay nhất đàn. Đấy là đầu đuôi câu chuyện mà tôi đã hứa kể hầu các ngài. Nếu tôi đã kể mất nhiều thời giờ, tôi cũng sẽ dành nhiều thời giờ để phụng sự các ngài. Chuồng trại của tôi gần đây, có sữa tươi, phó-mát rất ngon cùng nhiều trái quả chín mọng, vừa ngon mắt vừa ngon miệng.
Chương 52
CUỘC ẨU ĐẲ GIỮA ĐÔN KIHÔTÊ VÀ CHÀNG CHĂN DÊ, CÙNG CÂU CHUYỆN LY KỲ CỦA CÁC THẦY TU KHỔ HẠNH MÀ CHÀNG HIỆP SĨ ĐÃ KẾT THÚC TỐT ĐẸP BẰNG MỒ HÔI NƯỚC MẮT CỦA MÌNH
Câu chuyện của chàng chăn dê làm cho tất cả đám thính giả đều thích thú, nhất là ông thầy tu. Với một sự quan sát tỉ mỉ, ông ta nhận thấy rằng lối kể chuyện của chàng chăn dê chứng tỏ anh ta hoàn toàn không phải là một con người thô lỗ mà phải là một triều thần giỏi giang; ông công nhận rằng Cha xứ rất có lý khi nói rằng núi non sản sinh ra sĩ phu. Mọi người đều ngỏ ý muốn giúp đỡ Ơhêniô; Đôn Kihôtê tỏ ra sốt sắng nhất, chàng nói:
Người anh em chăn dê ơi, quả tình nếu tôi có khả năng làm một cuộc phiêu lưu mạo hiểm mới, tôi sẽ lên đường ngay lập tức thì để giải quyết tốt việc này cho anh. Tôi sẽ giải thoát nàng Lêandra khỏi nhà tu kín (chắc chắn nàng miễn cưỡng vào đó) dù cho ni viện trưởng và bao kẻ khác chống lại, và tôi sẽ trao nàng tận tay anh để anh muốn làm gì tùy ý miễn là anh tôn trọng luật lệ của hiệp sĩ đạo cấm không được có hành động gì xúc phạm tới bất cứ một công nương nào. Với sự phù hộ của Chúa chúng ta, tôi tin rằng một pháp sư độc ác dù tài nghệ cao cường đến mấy cũng sẽ bị một pháp sư thiện tâm hơn trừng trị. Bởi thế, tôi xin hứa sẽ ủng hộ và giúp đỡ anh vì nghề nghiệp của tôi buộc tôi phải cứu vớt những kẻ hoạn nạn cô đơn.
Nhìn Đôn Kihôtê, chàng chăn dê lấy làm ngạc nhiên trước bộ mã và diện mạo xấu xa của chàng hiệp sĩ, bèn hỏi bác phó cạo ngồi bên:
Thưa ngài, chẳng hay người này là ai mà diện mạo lời lẽ lạ lùng như vậy? Bác phó cạo đáp:
Còn ai nữa ngoài hiệp sĩ trứ danh Đôn Kihôtê xứ Mantra, con người chuyên đi uốn nắn những điều sai trái, đả phá những sự bất công, chỗ dựa của các cô gái yếu đuối, nỗi kinh hoàng của lũ khổng lồ và kẻ chiến thắng trong chiến trận.
Chàng chăn dê nói:
Ngài giới thiệu ông ta đúng như sách tả các hiệp sĩ giang hồ đi làm những công việc này. Riêng tôi nghĩ rằng một là ngài nói đùa cho vui, hai là trong đầu ông bạn hiền đây có những khoang rỗng tuếch.
Mi là một tên đại ********, Đôn Kihôtê hét to, chính mi là kẻ rỗng tuếch và hèn nhát; đầu ta còn to và đầy hơn cả cái bụng ****** mẹ đã đẻ ra mi.
Nói rồi, chàng vớ một chiếc bánh mì ở bên cạnh và ném rất mạnh vào giữa mặt chàng chăn dê làm mũi anh này bẹp gí. Vốn không biết đùa, lại thấy mình bị đánh đau, anh chàng chăn dê quên cả tấm thảm trên có thức ăn, quên cả những chiếc khăn ăn, quên luôn cả những người đang ngồi ăn, nhảy bổ lên người Đôn Kihôtê, hai tay thít chặt cổ chàng. Vừa lúc đó, Xantrô Panxa xông tới nếu không thì chắc chắn anh chăn dê đã làm cho Đôn Kihôtê tắc thở; bác giám mã túm hai vai chàng ta rồi ném vào giữa bàn ăn, đĩa cốc vỡ tan rơi loảng xoảng ra đất.
Được giải vây, Đôn Kihôtê lao lên người chàng chăn dê; mặt mày đầm đìa máu me, lại bị Xantrô đánh nhừ tử, anh này quờ quạng tìm dao để trả thù bằng một cuộc lưu huyết; ông thầy tu và Cha xứ vội ngăn lại. Trong khi đó, bác phó cạo giúp cho anh chăn dê ngồi được lên người Đôn Kihôtê, và thế là chàng hiệp sĩ khốn khổ bị ăn no đòn, mặt mày cũng đầy máu như đối phương. Ông thầy tu và Cha xứ cười vang, các người lính cảnh sát thích quá nhảy cỡn, mọi người đứng ngoài xuỵt ầm lên như ta xuỵt ***khi thấy chúng cắn nhau. Riêng Xantrô đứng nhìn một cách tuyệt vọng vì bác bị một người hầu của ông thầy tu giữ chặt không sao gỡ ra được để chạy lại cứu chủ.
Trong lúc mọi người còn đang mê mải say sưa xem hai đối thủ cấu xé nhau, bỗng đâu vọng lại một tiếng kêu buồn thảm khiến họ phải quay mặt về phía đó. Người tỏ ra xúc động nhất vì tiếng kêu là Đôn Kihôtê lúc này vẫn đang miễn cưỡng chịu nằm dưới chàng chăn dê, quá nửa thân người nhừ tử vì đòn; chàng nói:
Người anh em quỷ sứ ơi, ta gọi anh như vậy vì anh không thể là một cái gì khác được; anh đã tỏ ra dũng cảm hơn ta và đã khuất phục được ta; giờ đây ta yêu cầu ngưng chiến trong vòng một tiếng đồng hồ. Ta ngờ rằng tiếng kèn thảm thiết của chúng ta vừa nghe thấy kêu gọi ta đi giải quyết một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào đây.
Chàng chăn dê lúc này cũng đã mệt phờ vì đánh người và bị người đánh, buông ngay chàng hiệp sĩ ra. Đôn Kihôtê đứng dậy quay mặt về phía có tiếng kèn thì vừa hay nhìn thấy có một đoàn người từ trên sườn đồi đi xuống, toàn thân mặc đồ trắng như kiểu các thầy tu khổ hạnh.
Số là năm đó, những đám mây không chịu nhả sương xuống mặt đất và khắp vùng dân chúng tổ chức rước xách, cầu đảo xin Thượng đế mở rộng đôi bàn tay bác ái mưa xuống cho. Vì vậy mà dân ở một làng lân cận đã tổ chức một đám rước tới một ngôi đền dựng bên sườn một quả đồi trong thung lũng này. Đây không phải là lần đầu tiên Đôn Kihôtê trông thấy những bộ y phục lạ lùng của các thầy tu khổ hạnh; nhưng chàng không nhớ những chuyện cũ mà lại tưởng đây là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào dành riêng cho một hiệp sĩ giang hồ như chàng. Đã vậy, đám rước lại mang theo một bức viền tang khiến chàng đinh ninh là có một phu nhân quyền quý nào đây đang bị những tên ******** ngu xuẩn và láo xược bắt đem đi. Nghĩ vậy, chàng nhanh nhẹn chạy tới chỗ con Rôxinantê đang gặm cỏ, tháo chiếc khiên buộc ở cốt yên, đóng cương vào tử tế, bảo Xantrô đưa cho thanh kiếm rồi nhảy phốc lên ngựa, tay ôm khiên, mồm thét to:
Hỡi đám người dũng cảm kia, giờ đây các người sẽ nhận ra rằng sự có mặt của những kẻ hành nghề hiệp sĩ giang hồ trên đời này là vô cùng quan trọng; giờ đây, khi các người thấy ta giải thoát cho phu nhân kia, các người sẽ phải quý trọng các hiệp sĩ giang hồ.
Vì không có đinh thúc ngựa, chàng phải dùng đùi thúc con Rôxinantê đi nước kiệu (đọc suốt câu chuyện có thật này, không hề thấy kể rằng con Rôxinantê phi nước đại bao giờ) lao tới trước mặt đám thầy tu khổ hạnh. Cha xứ, ông thầy tu và bác phó cạo không sao ngăn lại được; Xantrô kêu ầm lên:
Ngài đi đâu vậy, hỡi ngài Đôn Kihôtê? Con quỷ nào đã nhập vào người ngài khiến ngài dám chống cả tín ngưỡng như vậy? Rõ khổ tôi chưa! Ngài phải biết đây là các thầy tu khổ hạnh đi rước, còn bà phu nhân người ta khiêng trên kiệu là hình Đức Mẹ đồng trinh đáng kính đấy. Xin ngài hãy suy nghĩ về hành động của mình kẻo lần này người ta sẽ bảo rằng ngài chẳng hiểu gì hết.
Xantrô tốn công vô ích vì chủ bác cương quyết xông tới đám người khoác áo choàng trắng và giải thoát cho phu nhân để tang nên không nghe thấy gì; vả lại chàng có nghe thấy cũng chẳng quay đầu dù đó là lệnh vua. Đến nơi, chàng ghìm ngựa lại (quả thật lúc này con Rôxinantê cũng muốn nghỉ chân một chút), hổn hển nói bằng giọng the thé:
– Có lẽ các người chẳng phải thiện nhân nên mới che mặt như vậy. Hãy giỏng tai ra nghe ta nói.
Những người khiêng ảnh dừng lại trước; một trong bốn nhà tu hành đang đọc kinh cầu đảo, nhìn thấy diện mạo kỳ lạ của Đôn Kihôtê, hình thù gầy gò của con Rôxinantê cùng những hành động nực cười khác của chàng hiệp sĩ, bèn đáp:
Người anh em muốn nói gì xin hãy nói nhanh lên kẻo những người khiêng ảnh đây sắp rách thịt rồi; chúng tôi không thể và cũng không được dừng lại nghe bất cứ ai nói nếu không nói ít lời.
Ta chỉ nói một lời, Đôn Kihôtê đáp; hãy giải phóng ngay cho phu nhân xinh đẹp này. Những giọt nước mắt và vẻ mặt buồn rầu của bà ta chứng tỏ các ngươi đã cưỡng bức đưa bà ta đi và rõ ràng đã có hành động xúc phạm tới bà ta. Ta sinh ra đời để uốn nắn những sự sai trái, và ta sẽ không để cho các người tiến lên một bước nếu các người không trả lại tự do mà bà ta mong muốn và xứng đáng được hưởng.
Nghe những lời lẽ của Đôn Kihôtê, mọi người đều nghĩ là chàng điên và họ phá lên cười khiến Đôn Kihôtê nổi khùng; chẳng nói chẳng rằng, chàng rút gươm xông tới bức ảnh. Một trong những người khiêng bèn bỏ ảnh chạy tới trước mặt Đôn Kihôtê, giơ chiếc đòn lên đỡ (chiếc đòn này vẫn dùng để chống khung ảnh mỗi khi đám rước dừng lại); Đôn Kihôtê chém một nhát đứt đôi; còn lại một nửa chiếc đòn trong tay, bác phu khiêng ảnh nện thẳng cánh vào vai bên phía tay cầm gươm của Đôn Kihôtê khiến tay cầm khiên của chàng không sao đỡ được ngón đòn chí tử đó; đau quá, chàng hiệp sĩ lăn ra đất.
Mời nghe, đọc thêm: Tiểu thuyết Đôn ki hô tê tập 41
Mời nghe, đọc thêm: Tiểu thuyết Đôn ki hô tê tập 43

#9.Nếu bạn muốn trao đổi thêm về sách nói hay có ý kiến gì liên quan đến cuốn sách Chinh phục mục tiêu-Bryan Tracy phần 11 đừng ngần ngại để lại dưới comment dưới bài viết này nhé.
Điện thoại: 0888.605.666 / 0932377138
Website: baohiempetrolimex.com | thegioibaohiem.net
Zalo, Viber: 0932.377.138 / Facebook: Sách nói
-
Momo : 0932.377.138 ( tài trợ cho người viết )